Thứ Tư, 30 tháng 12, 2009

Cám ơn cuộc đời, cám ơn bạn bè: ông già Noel chưa chết...

Mấy hôm rày tôi buồn, nỗi buồn nhỏ nhưng sắc nhọn, cứ như khứa vào đâu đó trong tôi, làm buốt lên từng cơn.
Nỗi buồn bắt đầu rất bất chợt, khi tôi đến nhà Hùng, em cột chèo của tôi để cùng nhau đi lễ tối Giáng sinh. Cháu gái tôi, Nhi, đã dùng một tờ giấy lớn để vẽ hình cây thông Christmas và treo lên tường, vì năm nay không hiểu vì sao Hùng đã không dựng cây thông trong nhà. Cháu nhi viết trong bức tranh rằng: cháu xin lỗ̃i ông Santa vì ba mẹ cháu không có thì giờ để đi mua cây thông thật, nên cháu vẽ tạm cây thông này để ông nhận ra cháu ở đây mà đến cho quà. Xin ông thông cảm cho cháu và đề quà của ông dưới gốc cây này ông nhé. Một lần nữa cháu thành thật xin lỗi ông.
Tôi bổng muốn khóc khi đọc những giòng này. Chúng ta dành thời gian cho ai? Có thật là chúng ta quá bận đến nỗi không thể dành ra ba mươi phút cho con cái một niềm vui? Chúng ta lo cho tương lai của chúng bằng cách cố gắng làm ra thật nhiều tiền, nhưng có chắc con cái ta sẽ được hưởng cái kết quả quá xa đó không?
Nỗi buồn thấm sâu hơn, khi sáng hôm sau con gái tôi và các cháu khác gọi nhau để hỏi về các món quà mà ông Santa đã cho chúng. Con gái tôi bảo rằng có lẻ ông già Santa không đến viếng nhà Nhi vì ông không thấy cây thông thật. Nhi  trả lời: ba Nhi bảo, không có ông già Santa, ba Nhi chính là ông già Santa, ba Nhi sẽ đi mua quà cho Nhi vào ngày mai...sau Noel.
Tôi tự vấn, hay là mình quá nhạy cảm? Phải chăng cuộc đời này thực dụng và trần trụi đến thế?
.........................
Sáng nay, được an ủi rất nhiều, khi ghé thăm anh Hùng Lân:

...Không chỉ là trẻ con
Mới biết mong Ông già Noel về trong mùa đông buốt giá
Vì ước mơ trên đời này, ai mà không có?
Những kẻ lầm than, khốn khó, mệt nhoài...
Cả những tâm hồn rách nát tả tơi
Ai cũng mơ được có ngày trở thành con trẻ
Như những ngày ấu thơ được sờ vú mẹ
Tuổi thơ lung linh nhè nhẹ mảnh hình hài
Hạnh phúc lớn dần qua từng tiếng à ơi
Đời kéo ta về trong gió lốc
Trong đê mê trong chập chờn quay quắt
Tiếng thời gian nức nở đến rợn rùng
Nhìn lại mình, tóc đã điểm sương
Thế mà vẫn mong được thành con trẻ   .... 
 
Cám ơn cuộc đời, cám ơn bạn bè. Ông già Noel chưa chết.

Thứ Sáu, 18 tháng 12, 2009

Tuổi thơ và thần thọai


Năm ngoái, trong một buổi hội thảo của các bậc phụ huynh lớp giáo lý thiếu nhi, tôi đã độp khá nặng một vị tu sĩ vì thầy này đặt vấn đề: tại sao chúng ta khi tặng quà giáng sinh cho các em nhỏ, lại bảo với chúng rằng đây là quà của ông già Noel. Tại sao không nói thẳng với chúng đây là quà của ông bà cha mẹ mua cho. Như vậy là chúng ta đã nói dối với trẻ con…


Tôi đã độp rằng: Tuổi thơ gắn liền với cô Tấm, ông Bụt…Nói thật với chúng rằng không hề có Thạch Sanh, chẳng có ông già Noel… là chúng ta đã giết tuổi thơ…

Tôi thoáng chút ân hận, liệu có nên độp một vị thầy tu như vậy không. Rồi sau đó tôi quên…

Năm nay, đọc tờ báo lá cải có chuyện nầy hay hay, bổng nhớ lại chuyện năm ngóai và thôi ân hận…

Thùng quà không người gởi

Tại miền nam nước Ý, người ta còn kể chuyện về “Chiếc bong bong màu hồng”.

Chiếc bong bóng này là kết quả của sự bòn nhặt và tiết kiệm từng xu của Bep-pô, một em bé lên tám. Hôm ấy khi các em cùng lứa tuổicắp sách đến trường thì Bep-pô chạy nhanh lên đỉnh đồi thả chiếc bong bóng cho bay lên không trung. Cùng với chiếc bong bóng, Bep-pô cẩn thận cột theo bức thư nó đã nắn nót víêt từng chữ như sau: “Chúa ơi, vài tuần nữa con sẽ có một đứa em. Gia đình con đã có sáu anh em. Nhưng cha mẹ con nghèo lắm. Nhà cửa chật chội và không có đủ giường chiếu nên chúng con phải ngủ chung ba đứa một giường. Lần này con không xin gì cho con, nhưng con xin Chúa cho đứa em sắp sinh của con một ít quần áo và tả lót. Quần áo cũ đã xài rồi cũng được. Nhà con ở số… đường… làng A-côlê miền nam nước Ý. Tên con là Bep-pô.”

Sau khi thả , Bep-pô đứng nhìn mãi cho tới khi chiếc bong bóng mất hút trong mây nó mới thơ thẩn về nhà.

Sau đó là những giờ phút chờ đợi hồi hộp nhất đời của Bep-pô. Nhưng nó vẫn tiếp tục cầu xin và hy vọng. Sáu ngày nặng nề trôi qua. Rồi một buổi trưa đang lúc chới với các trẻ em trong xóm, nó thấy nhân viên bưu điện mang vào nhà nó một thùng quà.

Bep-pô nhanh chân chạy về nhà và nghe cha nó nói lớn với nhân viên bưu điện:

- Chắc anh nhầm rồi. Tôi đâu có ai quen ở Ri-vô-gô.

Người trao bưu phẩm phân trần:

- Món hàng đề tên và địa chỉ ở nhà ông, nếu không phải gởi cho ông thì còn cho ai nữa!

Cha của Bep-pô trả lời:

- Thôi đi ông ơi, nhận hàng không phải của mình để rồi mang thêm phiền phức sao? Làm gì có tiền mà bồi thường.

Thấy câu chuyện dai dẳng, Bep-pô đánh bạo chen vào:

- Thì bố cứ mở ra xem, nếu không phải của mình thì gởi trả lại cũng được thôi.

Thùng đồ được tạm thời mở ra để xem thử, và người ta thấy tòan đồ trẻ sơ sinh. Nào tã, nào băng rốn, nào những chiếc áo nhỏ tí…Đôi mắt của bố mẹ Bep-pô bừng sáng lên. Bep-pô vui như ngày tết, vui hơn nữa là người gởi không đề địa chỉ nên không thể gởi trả lại. Bep-pô chạy nhanh ra ngọn đồi nơi nó đã thả chiếc bong bóng sáu ngày trước. Đến nơi nó ngước mặt nhìn trời, miệng thì thầm nói: “Chúa ơi, con cám ơn Chúa!”.



Liệu chúng ta có nên nói thật với Bep-pô rằng, chẳng có Chúa nào gởi cho con thùng quà đó cả. Có ai đó đã nhặt được bức thư của con và đã gởi cho con đấy thôi….






Thứ Sáu, 11 tháng 12, 2009

Suy gẫm

Dọn dẹp...
Rũ con gái cùng dọn dẹp nhà cửa, con gái bảo ba nên vất cái này, cái nọ : đôi giày này con thấy ba có khi nào dùng đâu! Cái điện thoại bàn kia đâu có còn gọi được nữa ! Đầu DVD đui mắt rồi! Bóng đèn này ba thay loại mới ít hao điện rồi, có bao giờ dùng lại đâu. Cây thông kia xài hai năm rồi đó ba, năm nay nên mua cây thông mới...để chật nhà, chật garage. Con gái nói nghe hợp lý quá. Thế là một đống thu lu được đưa ra khỏi nhà. Nhà và nhà xe bổng rộng thoáng.

Lâu rồi không dọn dẹp cái máy vi tính, hôm rồi buồn buồn ngồi coi lại, lắm thứ đồ chơi, đồ hàng không bao giờ đụng tới, mà lúc trước mình nghĩ là có lúc sẽ dùng, lo lúc dùng không có, cứ thế mà cài, mà đặt vô. Nhớ lời con gái khuyên bèn remove, uninstall, delete tất... bổng dưng có cảm giác là cái máy chạy nhanh hơn!

Con gái bảo, đó ba xem bây giờ mọi thứ có phải tốt hơn trước không? Khi nào rãnh dọn tiếp...

Tất nhiên là mang nhẹ thì sẽ chạy nhanh nhưng vấn đề ở chỗ là chúng ta có dám vứt bỏ đi không? Và vất bỏ những gì, nếu bỏ hết thì cái nhà của mình cũng giống như nhà của dì Thoa, của chú Long. Nếu xóa hết  thì cái computer của ba cũng giống của con, chẳng có gì để ba có thể làm việc trên nó!

Chết...
Hôm rồi đọc báo trên mạng thấy có người đem xác vợ về nhà đúc thành tượng, bèn trao đổi với con gái về chuyện các cách táng xác trong lịch sử: địa táng (chôn), hỏa táng (đốt), thiên táng (chim ăn), thiền tàng (biến xác thành tượng như đang ngồi thiền) vân vân và vân vân...
-Thế ba thích cách táng nào?
-Ba sẽ về chết ở làng quê nơi ba sinh ra, ba không cần mộ, cần lăng, chôn ba xuống đất, đặt một tảng đá lớn bên trên và ghi: người đi nhiều nơi trên thế giới đã trở về...
- Hi hi, chết rồi mà ba vẫn còn ... trạng!

Thứ Ba, 8 tháng 12, 2009

noel và năm mới


thanhculan-daquyvang-N2Y-miennhulangthang-haovanphong-tranphan-hoasen-trinhxuanan-ksorke-ngovuu-vienkhanh-copyandpaste-vngps2007-hunglan-ttkhtigon71-mongterlist-thanglatdat-thinhan

Thứ Tư, 2 tháng 12, 2009

Bạn bè và những bài thơ quên

Sáng nay ghé thăm nhà DQV, ngạc nhiên không ít khi Miên Như còn nhớ mấy câu lục bát của mình, cám ơn bạn rất nhiều, mình như bất chợt gặp lại cái thằng tôi quen thật quen ngày trước:


Vì còn một chút lang thang

Nên chân còn dẫm lá vàng run chân

Vì còn một chút ái ân

Nên tim còn dệt mấy vần thơ điên

Vì còn giọt nắng cuối hiên

Nên chưa tỉnh giấc như miên mộng dài

Vì còn để lại dấu hài

Nên lòng còn tưởng bồng lai Giáng Kiều

Vì chăng còn một chữ yêu?

Trong bài tào lao thiên mạng viết về lớp cũ, cám ơn Miên Như cũng đã nhớ một đọan lục bát:

Kỷ niệm nỗi nhớ khôn cùng

Trông về kỷ niệm mịt mùng thời gian

Xa xăm vọng một tiếng đàn

Bài ca xưa ấy chợt lan kín hồn.

Hồi học năm thứ ba đại học, Bùi Xuân Ngọan đã làm mình ngạc nhiên đến cảm động khi Ngọan đọc nguyên bài thơ mình viết năm lớp 12 để câm lặng tặng cô bạn gái trong lớp, bài thơ đó bây giờ mình không còn nhớ và Xuân Ngọan bây giờ ở đâu…

Mình đã viết khá nhiều, cho nhiều người. Liệu có còn mấy người như Miên như Ngọan.

Cám ơn cuộc đời, cám ơn bạn bè còn lưu trong ký ức một vài kỷ niệm về tôi…

Thứ Bảy, 28 tháng 11, 2009

Thất ngôn bát cú


Nhân một số bạn trẻ hỏi về cách làm thơ Đường thất ngôn bát cú, Cù lần tui bổng nổi hứng tóan học, mạo muội đưa ra hai bảng hướng dẫn sau đây về cách mần thơ, xin lấy hai bài thơ của Nguyễn Khuyến làm minh họa. Chữ viết tắt: 0 – bất luận (nhất tam ngũ bất luận), T: trắc, B: bằng. Niêm: chữ thứ hai của hai câu phải cùng T hoặc cùng B. Đối: đối ý và đối vần.

Bài thứ nhất: Hòai cổ
(luật trắc, vần bằng. Chữ thứ hai của câu (1) phải là vần T, chữ cuối của câu (1) phải là B)

Hai câu đề. Câu (2) niêm với câu (3)

0
T
0
B
0
T
B
Nghĩ
Chuyện
Đời
Xưa
Cũng
Nực
Cười
0
B
0
T
0
B
B
Sự
Đời
Đến
Thế
Thế
Thời
Thôi
Hai câu thực, đối nhau. Câu (4) niêm câu (5)
0
B
0
T
0
B
T
Rừng
Xanh
Núi
Đỏ
Hơn
Ngàn
Dặm
0
T
0
B
0
T
B
Nước
Độc
Ma
Thiêng
Mấy
Vạn
Người
Hai câu luận đối nhau. Câu (6) niêm câu (7)
0
T
0
B
0
T
T
Khóet
Rỗng
Ruột
Gan
Trời
Đất
Cả
0
B
0
T
0
B
B
Phá
Tung
Phên
Dậu
Hạ
Di
Rồi
Hai câu kết. Câu (8) niêm câu (1)
0
B
0
T
0
B
T
Thôi
Thôi
Đến
Thế
Thời
Thôi
Nhỉ
0
T
0
B
0
T
B
Mây
Trắng
Về
Đâu
Nước
Chảy
Xuôi


Hoài cổ
Nghĩ chuyện đời xưa cũng nực cười,
Sự đời đến thế, thế thời thôi!
Rừng xanh núi đỏ hơn ngàn dặm,
Nước độc ma thiêng mấy vạn người.
Khoét rỗng ruột gan trời đất cả,
Phá tung phên giậu hạ di rồi.
Thôi thôi đến thế thời thôi nhỉ,
Mấy trắng về đâu nước chảy xuôi
Bài 2: Tng đc Hà Nam
(luật bằng, vần bằng: chữ thứ hai và chữ cuối của câu (1) phải B

Hai câu đề. Chữ thứ (2) phải B

0
B
0
T
0
B
B
Ai
Rằng
Ông
Dại
Với
Ông
Điên
0
T
0
B
0
T
T
Ông
Dại
Sao
Ông
Biết
Lấy
Tiền
Hai câu thực đối nhau, câu (3) niêm vói câu (2)
0
T
0
B
0
T
B
Cậy
Cái
Bảng
Vàng
Treo
Nhị
Giáp
0
B
0
T
0
B
B
Khóet
Thằng
Mặt
Trắng
Lấy
Tam
Nguyên
Hai câu luận đối nhau, câu (5) niêm với câu (4)
0
B
0
T
0
B
T
Dấu
Nhà
Vừa
Thóat
Sừng
Trâu
Đỏ
0
T
0
B
0
T
B
Phép
Nước
Xin
Chừa
Móng
Lợn
Đen
Hai câu kết. Câu (7) niêm vói (6). Câu (8) niêm với câu (1)
0
T
0
B
0
T
T
Chỉ
Cốt
Túi
Mình
Cho
Nặng
Chặt
0
B
0
T
0
B
B
Trăm
Năm
Mặc
Kệ
Tiếng
Chê
Khen
Tổng đốc Hà Nam

Ai rằng ông dại với ông điên,

Ông dại sao ông biết lấy tiền?

Cậy cái bảng vàng treo nhị giáp,

Khoét thằng mặt trắng lấy tam nguyên

Dấu nhà vừa thoát sừng trâu đỏ,

Phép nước xin chừa móng lợn đen

Chỉ cốt túi mình cho nặng chặt,

Trăm năm mặc kệ tiếng chê khen



Đọc lại hai bài thơ của cụ Nguyễn Khuyến bổng thấy ngậm ngùi. Mong quý bạn trẻ có thêm một chút tư liệu.



Thứ Ba, 17 tháng 11, 2009

Đọc lại sử xưa


Thật khó để biết một sự thật lịch sử. Có nhiều chuyện mà trước đây Cù lần tui chắc mẫm như hai với hai là bốn, nhưng bây giờ, ở cái thời kỳ bùng nổ lùng bùng thông tin, bổng đâm nghi ngờ. Có những điều, nhiều chuyện xem ra mình đã biết sai, mình đã hiểu nhầm. Nghe, đọc, thậm chí nếu được phải ... sờ nhiều nguồn, nhưng lắm khi cũng chủ quan.

Có một đoạn sử sau, trong ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ (nguồn : http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/dvsktt/index.html) trong phần DVSK Bản Kỷ Toàn Thư 3: Nhà Lý (1054 - 1138), đoạn nói về vua Lý Nhân Tông:


"Vương An Thạch nhà Tống cầm quyền, tâu [với vua Tống] rằng nước ta bị Chiêm Thành đánh phá. Quân còn sót lại không đầy vạn người, có thể dùng kế chiếm lấy được. Vua Tống sai Thẩm Khởi, và Lưu di làm tri Quế Châu ngầm dấy binh người Man động, đóng thuyền bè, tập thủy chiến, cấm các châu huyện không được mua bán với nước ta. Vua biết tin, sai Lý Thường Kiệt,  Tông Đản đem hơn 10 vạn binh đi đánh. Quân thủy, quân bộ đều tiến. Thường Kiệt đánh các châu Khâm, Liêm; Đản vây châu Ưng, Đô giám Quảng Tây nhà Tống là Trương Thủ Tiết đem quân đến cứu. Thường Kiệt đón đánh ở cửa ải Côn Lôn (nay là phủ Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây của nhà Minh) phá tan được, chém Thủ Tiết tại trận. Tri Ưng châu là Tô Giám cố thủ không hàng. Quân ta đánh đến hơn 40 ngày, chồng bao đất trèo lên thành. Thành bèn bị hạ. Giám cho gia thuộc 36 người chết trước, chôn xác vào hố, rồi châm lửa tự đốt chết. người trong thành cảm ân nghĩa của Giám, không một người nào chịu hàng, giết hết hơn 5 vạn 8 nghìn người, cộng với số người chết ở các châu Khâm, Liêm thì đến hơn 10 vạn. Bọn Thường Kiệt bắt sống người ba châu ấy đem về. Vua Tống truy tặng Giám là Phụng quốc quân tiết độ sứ, thụy là Trung Dũng, cho một khu nhà lớn ở kinh thành, 10 khoảnh ruộng tốt cho thân tộc  7 người làm quan, cho con là Nguyên chức Cáp môn chi hậu."
 
Kính mong được quý blog- hữu chỉ giáo.
Có cách nào làm cho đọan sử này trở nên khả tín được không?
(Cù lần tui tiếng Việt thì ở mức đọc thông viết thạo, tiếng Anh thì cà dập cà nát nhưng cũng hiểu được, còn tiếng Tàu thì bó tay chấm com)
 
Mong mỏi lắm thay.
 





Thứ Hai, 9 tháng 11, 2009

Ngươi đang làm gì! Thầy đang nói gì!

Thiền sư Mu-Nan chỉ có một đệ tử kế thừa là Shoju. Sau một thời gian dài theo học, Shoju được thầy gọi vào phòng.
-Ta đã già, con là người sẽ  kế thừa giáo pháp này. Đây là cuốn kinh đã được truyền đến bảy đời, thầy cũng có chép thêm vài điều. Cuốn sách này rất quý, ta trao lại cho con như ấn chứng.
-Nếu cuốn kinh quan trọng đến thế thì thầy nên giữ lấy, con đã được truyền thụ thiền không nhờ văn tự và con rất thỏa nguyện.
-Ta biết thế, cho dù như vậy, tập kinh này đã được truyền cho các thầy đến bảy đời, con nên giữ lấy như là bảo vật chánh truyền giáo pháp. Đây.
Hai thầy trò đang nói chuyện bên lò than. Ngay khi Shoju cầm lấy cuốn sách, ngài liền quăng vào lò lửa. Chẳng một ham muốn sở hữu.
Thiền sư Mu-Nan, chưa từng biết giận, hét lên:
-Ngươi đang làm gì vậy?
Shoju quát lại:
-Thầy đang nói gì vậy?

Thứ Sáu, 6 tháng 11, 2009

Cô lái đò và nhà sư

Lần thứ nhất:
- Thưa thầy, thầy phải trả gấp đôi tiền đò vì thầy đã ngắm con, một cô gái đẹp.
Lần thứ hai:
- Thưa thầy, thầy phải trả gấp ba tiền đò vì tuy thầy không ngắm con, nhưng thầy đã trộm nhìn bóng con dưới nước.
Lần thứ ba:
- Thưa thầy, thầy phải trả gấp bốn lần tiền đò vì tuy thầy nhắm mắt, nhưng thầy đã nghĩ về con.
Lần thứ tư:
- Thưa thầy, thầy khỏi phải trả tiền đò vì thầy đã nhìn con chằm chằm nhưng thầy chẳng hề nghĩ đến con.

Thứ Hai, 2 tháng 11, 2009

Đại sư trầm mặc

Xưa có một hòa thượng, nghe nói người đã chứng ngộ sẽ được người khác tôn kính, trọng vọng, ngày nọ ông tuyên bố với mọi người là mình đã chứng đạo.
Nhiều tăng sĩ lặn lội tìm đến tham bái nhờ ông khai thị.
Ông lo lắng lộ tính phàm phu của mình nên ra vẻ im lặng, trang bị cho mình một dáng vẻ trầm mặc huyền bí, tự xưng là Trầm mặc đại sư và khôn khéo giao phó  mọi việc cho hai đệ tử ưu tú có tài hùng biện tiếp khách.
Ngày nọ, hai đệ tử có việc phải xuống núi, đúng vào lúc đó có một vị du tăng tìm đến xin học đạo, bất đác dĩ đại sư Trầm Mặc phải thân chinh tiếp khách.
- Phật là gì? . Vị tăng lễ phép hỏi.
Đại sư Trầm Mặc chẳng biết phải trả lời làm sao, đành giữ im lặng, vừa ngó đông ngó tây, mong ngóng hai đệ tử về cứu nạn.
Vị du tăng thấy đại sư im lặng nhìn quanh quất đầy khí phách thiền cơ bèn hỏi tiếp:
- Pháp là gì?
Lần này đại sư Trầm Mặc  tuyệt  vọng  vì không thấy đệ tử, đành né tránh tia nhìn sắc bén của vị tăng, vờ ngẩng đầu nhìn trời, rồi cúi đầu dán mắt xuống đất, sau đó không hó hé nửa lời.
Vị khách thấy mình được khai thịsâu sắc, hỏi tiếp:
- Tăng là gì?
Đến lúc này đại sư Trầm Mặc đành nhắm tịt hai mắt lại, chẳng thể biểu hiện gì được nữa.
Du tăng lòng đầy hỷ lạc, hỏi thêm:
- Đại sư, hạnh phúc, an lạc là gì?
Giờ thì ông chịu hết nổi, cảm thấy nhức buốt đầu, giơ hai tay phẩy một cái, tỏ vẻ bất lực, không thể ứng tiếp gì nữa cả.
Du tăng cực kỳ cung kính, vui vẻ cáo từ. Lòng đầy thán phục đại sư Trầm Mặc sao cao thâm, uyên   bácquá! Đúng là danh bất hư truyền, thâm thúy khó lường!
Ông từ giả đại sư đi không lâu thì gặp hai đệ tử của ngài Trầm Mặc đang trên đường về chùa. Không hề biết quan hệ thầy trò họ, du tăng bày tỏ niềm hoan lạc tâm đắc mãn nguyện  của mình:
- Thật lời đồn không sai! Nhà sư Trầm mặc trên núi quả là bậc chân tu chứng ngộ đấy! Tôi hỏi: Thế nào là Phật? Ngài xoay đầu nhìn bốn phương, như ngầm bảo người đi tìm Phật khắp nơi, kỳ thật Phật ở trong lòng, chẳng cần tìm đâu xa...
Tôi hỏi: Thế nào là Pháp? ngài trước ngước nhìn lên trời, rồi lại ngó xuống, ngụ ý rằng Pháp hoàn toàn bình đẳng, không phân cao thấp.
Tôi hỏi: Thế nào là Tăng? Thì ngài nhắm  mắt lại liền, ý muốn dạy phải bế môn khổ tu mới thành tăng!
Sau đó tôi không nghĩ ra điều gì nữa, mới buộtmiệng hỏi: - Thế nào là hạnh phúc hỷ lạc? Thì ngài đưa tay ra, ý nói phải buông bỏ hạnh phúc, khéo giúp đở người khác mới là hỷ lạc...
Chà! Đại sư Trầm Mặc chứng ngộ thâm cao, chỉ dạy cao siêu biết dường nào! Hai huynh mau đến đó đến đó để ngài chỉ giáo cho!
Vị du tăng nói xong lộ vẻ cực kỳ mãn nguyện, vái chào và tiếp tục cuộc vân du học đạo của mình..
Hai vị đồ đệ há hốc mồm, trợn ngược mắt   nghĩ thầm:     Sao sư phụ mình trong nháy mắt đã biến thành bậc ngộ đạo cao thâm đáng nể thế? Phải mau về hỏi thực hư...
Đại sư Trầm Mặc vừa thấy hai dệ tử về đến, không kềm được thịnh nộ, liền mắng xối xả:
- Bọn người đi lâu như quỷ, vừa rồi có một du tăng đến cầu đạo, hỏi lung tung, báo hại ta suýt nữa té nhào, may nhờ ta biết làm thinh đến cùng, mới thoát nạn đó!
(Hạnh Đoan kể theo truyện cổ Phật giáo)

Thứ Bảy, 24 tháng 10, 2009

Chuyện đời xưa: Tổ với chức!

Không biết rõ các từ 1975 đến 1979 quý thầy cô có sợ phòng tổ chức ty giáo dục không, chứ từ 1979, năm tôi ra trường đi dạy thi phòng tổ chức là ông kẹ của giáo viên cấp ba.
Mỗi năm hết hè lòng tôi bổng sợ... đó là câu ca của thầy cô cấp ba sau hai tháng hè, hết phép, được triệu tập về ty để bồi dưỡng chuyên môn, học tập chính trị, chuẩn bị cho năm học mới.
Công bằng mà nói, thì những khóa học như thế này rất bổ ích cho thầy cô: đây là thời gian tốt nhất để tìm hiểu xem chương trình năm học mới có gì thay đổi, nhìn lại kết quả giảng dạy của trường mình và trường bạn, nghe tin tức thời sự trong nước và ngoài nước về phát triển giáo dục vân vân và vân vân. Ở các nước tiên tiên tiến người ta cũng làm thế. Thật là phúc cho giáo viên để có những đợt bồi dưỡng như vậy.
Nhưng thực tế thì có nhiều chuyện cười ra nước mắt trong đợt học bồi dưỡng cuối hè. Tôi còn nhớ nỗi lo sợ của mình và của đồng nghiệp sau mỗi đợt học. Số là ty giáo dục Gialai- Kontum dạo đó cứ sau đợt "bồi dưỡng" là biên chế lại giáo viên, nói rõ là phòng tổ chức ty sẽ đem đi đày một số thầy cô cứng đầu cứng cổ, không giải thích lý do. Tội nhất là quý anh chị đã có gia đình con cái,chỗ ăn chỗ ở yên ổn, cứ lo ngay ngáy, không biết năm học rồi mình có làm mếch lòng lãnh đạo không? Có bị cấp trên  chiếu tướng không? Có bị  thế thân ai không? (có ai chạy chọt để chuyển về trường phố không?). Chúng tôi, những giáo viên trẻ thì ít ngán, vì chẳng có gì khác lắm khi thay đổi chỗ dạy, chỉ sợ bị bêu. Bêu tức là trong năm học cũ, có thể bị quan nào đó đến dự giờ, quan nhưng trình độ nhiều khi kém hơn giáo viển, nên bất đồng trong việc đánh giá giờ dạy, các quan không thù vặt, nhưng nhớ dai, nên thường đem danh của thầy cô nào đó không hợp nhãn ra nhắc nhở! chứ chăng phải bêu! Tôi cũng ngán lắm, vì tính tôi, thủa đó dại, hay nói ngang...
Sau gần chục năm dạy ở Gialai- Kontum, hai lần được phòng tổ chức lạnh tanh của ty chiếu cố. Tôi xin chuyển công tác vô Nam. Bạn tôi khuyên tôi đừng đi, dù sao thì ở đây mày cũng thành lính cựu trào rồi, chẳng có tay hiệu trưởng nào thích nhận giáo viên già kinh nghiệm đâu! vì sao mày  tự hiểu. Nhưng Phùng, nhân viên tép riu phòng tổ chức ty thì bảo, mày nên đi khỏi ty này Cù ạ, các quan ngán mày lắm. Tôi chẳng nghe ai, tôi chuyển vô Nam là do tôi chẳng thích dạy ở Gialai, thế thôi.
Tôi nhận quyết định thuyên chuyển công tác của ban tổ chức chính quyền tỉnh (lại tổ chức!), đến phòng tổ chức ty giáo dục để nhận hồ sơ thuyên chuyển, hồ sơ niêm phong cẩn thận, tay trưởng phòng tổ chức mắt lạnh băng nói với tôi bằng giọng thi ơn, đáng ra hồ sơ này phải gởi đi bằng bưu điện nhưng nể anh lắm mới để anh mang tay! Tôi ngây thơ thầm cám ơn lòng tử tế của quan trên!
Tôi ở lại nhà ông bạn Pleiku vài hôm để giả từ phố núi. Trong bữa rượu tống biệt, ông này không tin tổ chức mấy, nên bày tôi mở niêm phong xem các quan nhận xét gì, tôi không đồng ý vì sợ rắc rối. Hứng tình thế nào, ông bạn tôi tự tay bóc niêm phong. Chuyện xảy ra, thật khó tưởng tượng nỗi....
Các quan trong phòng tổ chức ty bỏ nhầm hồ sơ của lão tài xế trùng tên khác họ và chữ lót với tôi, vào phong bì. Nghe đâu lão này xin thôi việc từ năm 1976!
Chuyện xưa, kể cho vui, nghe xong rồi quên.

Thứ Ba, 20 tháng 10, 2009

Một chuyện ... anh yêu em.

Ở cái tuổi ngũ thập này rồi mà nói chuyện anh yêu em thì nghe sao quá lãng. Xin nói ngay từ đầu đây là chuyện kể, một chuyện có thật, người thật tên thật. Có điều chuyện ấy xảy ra cách đây gần ba mươi năm rồi!
Số là năm đó trường Pleiku chia hai, các thầy trẻ gọi vui là cu một, cu hai. Tôi không may mắn được ở lại cu nào, tôi bị điều về trường huyện khộng rõ lý do, hồi đó chỉ biết phục tùng, lời giải thích cho việc thay đổi chỗ dạy luôn là: theo yêu cầu của tổ chức!
Bạn bè ra trường cùng lứa đa số về trường mới Pleiku hai, ở Trà Bá, cũng có vài thầy cô Bắc kỳ về làm nòng cốt! Không còn nhớ hôm đó tại sao tôi lại ở lại trong khu tập thể của trường Pleiku hai. Khu tập thể của thầy cô còn dư vài phòng nên quý thầy cô nòng cốt cho vài em học sinh con gia đình nòng cốt ở trọ học. Trời mưa, tôi nhớ hôm đó chủ nhật trời mưa và gió, Hằng, học sinh nữ, đang thổi cơm trước hành lang của dãy nhà tập thể, bếp tắt vì mưa. Thầy Chúc, giáo viên  tăng cường, đã có vợ con ở bắc kỳ, dạy lý, thư ký công đoàn, gọi Hằng đem bếp vào phòng thầy nấu tiếp. Ôi tình cảm biết bao, các thầy giáo trẻ thì không bao giờ, bởi vì hồi đó đa số chúng tôi đều sống nhờ bếp tập thể, chẳng có khái niệm chợ búa bếp núc!
Không biết ông tướng nào bày trò bắc thang bằng ghế nhìn lén phòng thầy Chúc. Tôi chẳng nhìn thấy gì nhưng chỉ nghe câu: "...anh yêu em" từ phòng thầy Chúc và tiếng ghế sập cùng tiếng cười vở toang của mấy ông thầy trẻ...

Tìm trong blog